Con số 7, tượng trưng cho sự hoàn mỹ và phong phú đã được người Hy Lạp cổ đại chọn làm con số gắn liền với những kỳ quan đẹp nhất, được miêu tả trên các cuốn sách hướng dẫn nổi tiếng họ. Đây cũng là danh sách về các kỳ quan thế giới được biết đến đầu tiên, và chỉ bao gồm những địa điểm thuộc khu vực địa trung hải.

Vẻ đẹp kỳ vĩ của những kỳ quan thế giới cổ đại không chỉ khiến người ta phải trầm trồ về sự vẻ đẹp bên ngoài theo mô tả của nó, mà còn phải nghiêng mình thán phục về đầu óc và sự tính toán tinh vi của các kiến trúc sư thời cổ đại. Không có bất cứ sự hỗ trợ nào từ các công cụ khoa học kỹ thuật hiện đại, những công trình nguy nga lộng lẫy ấy được dựng lên hoàn toàn từ sức người và những bộ óc tính toán siêu việt của người kỹ sư xây dựng thời bấy giờ. Điều đáng tiếc, 6/7 kỳ quan thế giới cổ chỉ còn có thể được quan sát dựa vào hình ảnh mô phỏng.

Kim tự tháp Giza ở Ai Cập

Đây là kỳ quan duy nhất còn tồn tại cho đến ngay nay, trong số 7 kỳ quan thời cổ đại của thế giới. Đại Kim tự tháp Giza là Kim tự tháp Ai Cập lớn nhất, được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, trong khoảng 27 năm. Tổng thể Kim tự tháp hầu hết vẫn còn nguyên vẹn, nó thuộc một phần của Quần thể Kim tự tháp Giza. Vị trí hiện tại giáp với Giza ngày nay tại Greater Cairo, Ai Cập.

Trong khoảng 3800 năm, Đại kim tự tháp là cấu trúc nhân tạo cao nhất thế giới, với chiều cao 146,6m. Theo sự bào mòn của tự nhiên qua thời gian, hầu hết lớp vỏ đá vôi trắng mịn đều bị ăn mòn. Điều nay đã hạ thấp chiều cao của kim tự tháp xuống còn 138,5m, chiều dài 230m, độ dốc 51°50'40”.

Đại kim tự tháp được xây dựng bằng cách khai thác đá. Phần lớn các viên đá không đồng nhất về kích thước hoặc hình dạng và chỉ được trang trí sơ xài. Các lớp bên ngoài được liên kết với nhau bằng vữa. Theo trang National Geographic, ước tính dùng khoảng 2,3 triệu khối đá vôi và đá granit để xây dựng kim tự tháp này. Mỗi khối đá nặng từ 2,5 - 15 tấn.

Theo Business Insider, ngày nay thậm chí nếu dùng cần cẩu, máy bay trực thăng, máy kéo và xe tải theo ý muốn của chúng ta, vẫn rất khó để xây dựng Đại kim tự tháp Giza. Việc xây dựng công trình này đáng kinh ngạc, đến mức một số người cho rằng có sự tham gia của người ngoài hành tinh hoặc yếu tố thần bí.

Tượng thần mặt trời Rhodes tại Hy Lạp

Đây là một bức tượng vĩ đại của thần mặt trời Helios được xây dựng trên đảo Rhodes thuộc Hy Lạp, vào khoảng năm 292 và 280 trước công nguyên. Người Rhodes xây dựng bức tượng vị thần bảo hộ của họ, để mừng thắng lợi trước sự vây hãm của kẻ thù. Việc xây dựng được giao cho Chares một nhà điêu khắc người Hy Lạp. Theo ước tính, nó có kích thước tương đương với bức tượng Nữ thần tự do ở New York (khoảng 46m), dù được đặt trên một cái bệ thấp hơn.  

Tuy nhiên, một trận động đất vào năm 226 trước công nguyên đã khiến bức tượng bị phá huỷ. Đây là công trình tồn tại ngắn nhất trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại. Sau sự cố, những mảnh vỡ của bức tượng vẫn nằm im trên mặt đất trong khoảng gần 800 năm. Người dân Rhodes đã không dám xây dựng lại bức tượng bởi một lời sấm truyền cho rằng họ đã xúc phạm đến thần mặt trời.

Đền thờ nữ thần Artemis tại Thổ Nhĩ Kỳ

Đền Artemis (tên gọi khác là đền thờ Diana) là ngôi đền của nữ thần săn bắn Artemis, là con của thần Zeus và thần Leto, được mô tả là một trinh nữ trong trắng cầm cung tên, thường đi cùng một con hươu hoặc một con chó. Ngôi đền này được xây dựng từ đá cẩm thạch, có chiều dài 115m, chiều rộng 55m, bao gồm 127 cột đá mỗi cột cao khoảng 20m. Toàn bộ công trình được dựng nên bởi hai cha con kiến trúc sư Chersiphron và Metagenes.

Đền thờ nữ thần Artemis, là một trong những công trình được xây dựng bằng đá cẩm thạch đồ sộ và lâu đời nhất. Đây còn được cho là nơi cất giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật tinh tế thời cổ đại. Tuy nhiên, vào năm 365 trước công nguyên công trình kiến trúc nguy nga lộng lẫy này đã bị phá huỷ bởi một kẻ mắc chứng “cuồng”, vì muốn tên tuổi mình trở nên bất tử hắn đã phóng hoả thiêu huỷ ngôi đền. Vài thập niên sau, một ngồi đền mới đã được xây dựng tại địa điểm đó, và mô phỏng theo kiến trúc ban đầu của ngôi đền cũ.

Vườn treo Babylon

Đây là công trình duy nhất trong số 7 kỳ quan cổ đại vẫn chưa xác định được vị trí chính xác. Không có bất kỳ một văn bản thời Babylon còn tồn tại nào nhắc đến khu vườn này, cũng như không có bằng chứng khảo cổ học nào được tìm thấy tại Babylon về khu vườn.

Theo một truyền thuyết, vườn treo nằm kế bên một cung điện rất lớn được biết đến với cái tên Kì quan của nhân loại, được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II  thời Tân Babylon (trị vì 605- 562 TCN), dành tặng cho vợ của mình là Amytis. Ba giả thuyết được đặt ra để giải thích cho sự tồn tại của “truyền thuyết” trên. Thứ nhất, công trình thật sự chỉ là “truyền thuyết”, với những mô tả đã được tô vẽ một cách lý tưởng về hình ảnh một khu vườn phương Đông. Thứ 2, nó đã từng tồn tại nhưng bị phá huỷ vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Thứ 3, khu vườn được mô tả thực chất là vườn treo do vua Sennacherib của Assyria (704–681 TCN) xây dựng tại thủ đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành phố Mosul thời hiện đại.

Ngọn hải đăng Alxandria

Ngọn hải đăng được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, bởi một nhà cai trị người Hy Lạp tại Ai Cập có tên Ptolemy. Kiến trúc sư Hy Lạp Sostratus thuộc Cnidus đã thiết kế ngọn hải đăng Alexandria. Công trình cao hơn 110m và chỉ đứng sau kim tự tháp Giza thời bấy giờ. Kỳ quan nổi tiếng này tồn tại khoảng 1.500 năm, nó được xây dựng với mục đích hướng dẫn tàu bè vào cảng Alexandria an toàn.

Thời điểm ấy, người Hy Lạp sở hữu thành phố Alexandria dù nó nằm giữa Ai Cập. Thành phố cũng được đặt tên theo Alexander đại đế, nhà cầm quân chinh phục thành công nơi này. Do đó, đối với người Hy Lạp cổ đại, ngọn hải đăng Alexandria tượng trưng cho sự hùng mạnh của Alexander đại đế và triều đại Ptolemy.

Theo ước tính, việc xây dựng ngọn hải đăng tiêu tốn khoản tiền khổng lồ là 800 talents (đơn vị tiền cổ). Trên đỉnh là pho tượng thần Poseidon, nổi tiếng trong thần thoại Hy Lạp làm từ đồng và tay cầm đinh ba cao 7m. Nó được vận hành bằng cách sử dụng lửa vào ban đêm, và gương đồng được đánh bóng để phản chiếu ánh mặt trời vào ban ngày. Theo ghi chép, ánh sáng từ ngọn hải đăng có thể được nhìn thấy từ khoảng cách 50km trên biển. Trải qua nhiều lần hư hỏng và sửa chữa do động đất, công trình này đã hoàn toàn sụp đổ vào năm 1303 trong một trận động đất nghiêm trọng.

Tượng thần Zeus ở Olympia – Hy Lạp

Bức tượng khổng lồ vua của các vị thần Hy Lạp, trong tư thế ngồi trên ngai vàng, tay trái của tượng là quyền trượng với một con chim đại bàng đậu trên đỉnh trượng (biểu tượng của thần Zeus), phần đầu chạm tới nóc điện. Bức tượng được ước tính có thể cao khoảng 18m ở tư thế đứng, và tạo cảm giác ngài có thể bật tung nóc điện nếu trong tư thế ấy.

Toàn thân của bức tượng được làm bằng 780m khối gỗ, sau đó được bọc bằng những tấm ngà voi ở bên ngoài (về mặt kỹ thuật, ngà voi được ngâm trong chất lỏng để làm mềm), sau đó được phủ bằng các tấm vàng. Phía trên đầu thần Zeus được trang trí bằng một vòng hoa ôliu trong khi áo và dép của tượng được làm hoàn toàn bằng vàng. Thân tượng đặt trên ngai làm bằng gỗ tuyết tùng, khảm ngà, vàng và nhiều loại đá quý vô cùng lộng lẫy. Toàn bộ cấu trúc nằm trên 1 phần đế bằng đá cẩm thạch cao 1m. Bức tượng tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần.

Nó được xây dựng để tôn vinh những kỳ thi Olympic đầu tiên, khởi nguồn từ thành phố cổ Olympia, nên phần ngai vàng được trạm khắc thêm những trận đấu kinh điển của giải đấu này. Nhưng đến năm 462 trước công nguyên, một trận hoả hoạn đã tàn phá thành phố và tiêu huỷ bức tượng kỳ quan này.

Lăng mộ Mausoleum tại Thổ Nhĩ Kỳ

Lăng mộ của Mausolus, hay Lăng Halicarnassus là một lăng mộ được xây dựng giai đoạn 353 TCB–350 TCN tại Halicarnassus (Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay). Nó được dành cho Mausolus, vị vương hầu một tỉnh thời Đế chế Ba Tư, và Artemisia, vợ và chị ông. Khu lăng mộ này được hai kiến trúc sư Hy Lạp Satyrus và Pythius thiết kế. Công trình này cao gần 45 mét, diện tích hơn 1.216 m2 và mỗi mặt được một trong bốn nhà điêu khắc nổi tiếng là Hy Lạp điêu khắc và trang trí.

Lăng mộ này đã hoàn toàn sụp đổ, theo giả thuyết có lẽ do động đất. Một số người còn cho rằng nó chưa thật sự được xây dựng hoàn thiện. Hầu hết những thông tin về lăng đều bị thất lạc vào khoảng thế kỷ 15.